Lịch
sử nhân loại được truyền thừa đời sau tiếp nối đời trước, như con sông
dài mãi chảy về khơi. Cuộc sống của mỗi một người lại giống như con sóng
trên sông đang đi tìm nguồn cội, đời này nối tiếp đời kia, cứ mãi đi
tìm ý nghĩa của sinh mệnh mình. Tất cả những điều đó đã tạo nên một dòng
chảy văn hoá truyền thừa đầy sắc màu, thi vị và chan chứa nhân văn.
Hơn
hai nghìn năm trước, tại mảnh đất Thần Châu, cuộc đối thoại giữa hai
thầy trò đã để lại một giai thoại đẹp cho người đời. Người học trò Tử Lộ
đứng bên bờ sông mà hỏi thầy mình rằng: “Thưa thầy, con muốn được biết
chí hướng của thầy?”. Vị thầy Khổng Tử suy nghĩ một lúc rồi đáp vẻn vẹn
12 từ: “Lão giả an chi, bằng hữu tín chi, thiếu giả hoài chi.” Ba câu này của Khổng Tử có thể hiểu đơn giản như sau: “Lão giả an chi” chính là Hiếu, “Bằng hữu tín chi” chính là Tín, “Thiếu giả hoài chi” chính là Bi.
Tại
sao Khổng Tử không để Tín hay Bi đứng trước mà lại là chữ Hiếu? Phàm là
từ bậc thánh nhân cho đến người thường đều đem chữ Hiếu đứng đầu? Cổ
nhân còn có câu: “Bách thiện hiếu vi tiên” (trong trăm việc thiện thì hiếu đứng đầu).
Bản năng và bổn phận
Người
ta cũng sớm nhận ra rằng có một số loại bổn phận thuộc về bản năng, vốn
không cần động lực để gò ép, ví như bổn phận vợ chồng, quan hệ giữa cha
mẹ và con cái. Trẻ con ngay từ lúc lọt lòng đã sẵn có tình cảm quyến
luyến với cha mẹ. Người mẹ cũng có sẵn cái gọi là bản năng làm mẹ, muốn
được quan tâm, săn sóc, đùm bọc, chở che cho con cái. Đó vốn là những
điều không cần phải dạy bảo, ai cũng sẵn có trong lòng.
Nhưng
bổn phận hiếu đức lại là một trường hợp khác. Quan sát một đứa trẻ nhỏ,
ta sẽ không thể thấy được sự hiếu thuận của chúng. Khi đói ăn, phản ứng
đầu tiên của chúng là tìm bằng được đồ ăn, không cần quan tâm xem bố mẹ
có đói không, đã ăn chưa… Từ đó có thể thấy hiếu thuận không phải là bản năng thiên bẩm của con người, mà là kết quả của sự tu dưỡng.
Sở
dĩ con người tuân thủ theo bổn phận của mình chính là do họ tin vào
thiện hữu thiện báo, ác giả ác báo. Chỉ có sự thành thật và thiện lương,
không giết người hại vật, chỉ làm điều thiện thì mới có được một cuộc
sống hạnh phúc, mới được cứu độ. Đó là cái lý mà ai cũng hiểu, ai cũng
làm theo. Con người trong xã hội cổ đại luôn là như thế. Họ tin rằng nếu
trong thời gian thọ mệnh hành thiện, tích đức thì sau khi chết đi linh
hồn sẽ được lên thiên đường. Hoặc giả, người có thể tu luyện thành chính
quả, đắc giác ngộ thậm chí còn vĩnh viễn thoát khỏi sự đau khổ của luân
hồi chuyển thế.
Tuy
nhiên, khi xã hội ngày càng phát triển, người ta cũng càng coi trọng
thế giới thực tại hơn. Họ cũng tỏ ra thận trọng, dè dặt, thậm chí hoài
nghi đối với thế giới sau cái chết và những chuyện luân hồi, báo ứng. Ví
như Khổng Tử từng nói: “Bất tri sinh, yên tri tử” (chưa hiểu rõ được đạo lý sinh thế nào, làm sao có thể hiểu được chết ra sao?).
Con
người tìm kiếm cho mình một con đường nương theo thế giới hiện thực để
phát triển bản tính thiên bẩm của mình. Con đường này được xây dựng nên
từ những mối quan hệ máu mủ thân thiết bẩm sinh hết sức thực tại với
người thân, cha mẹ. Do đó, chúng ta có thể dễ dàng lý giải tại sao hiếu
đạo lại là điểm khởi đầu của tu dưỡng đức hạnh.
Đức hạnh của vua Thuấn
Đối
với văn hoá truyền thống của các dân tộc Á Đông, chữ hiếu được xếp đứng
đầu trong mọi đức hạnh, Người Trung Hoa xây dựng khái niệm hiếu đức của
mình xoay quanh “Nhị Thập Tứ Hiếu” (tức 24 nhân vật nổi tiếng có hiếu
đức).
Trong
số đó, vua Thuấn là điển hình mẫu mực nhất. Ông trở thành biểu tượng về
lòng hiếu thuận. Tương truyền, mẹ Thuấn không may mất sớm từ khi ông
còn nhỏ. Cha Thuấn hai mắt lại mù loà, mẹ kế sinh thêm một người em tên
là Tượng. Thuấn sống trong hoàn cảnh khổ cực. Cha thì ương bướng, cố
chấp , mẹ kế thì gian trá, em thì kiêu ngạo. Thuấn luôn luôn chịu đủ
điều ức hiếp, không những vậy còn nhiều lần bị mẹ kế bày mưu hãm hại.
Có
một lần, mẹ kế sai Thuấn đi sửa mái nhà kho, rồi ở dưới đốt lửa cháy
kho muốn giết chết Thuấn. Lại có một lần bà sai Thuấn đi đào giếng, tới
khi đào xuống dưới sâu thì đứng ở trên lấy đất lấp lại. Rất may khi đào
xuống sâu bên dưới, Thuấn phát hiện một đường thông đạo dẫn ra bên
ngoài, nhân men theo đường đó mà thoát nạn.
Nhưng
trước sau như một, Thuấn chưa bao giờ lấy điều đó mà ghi thù nhớ oán.
Sau mỗi lần thoát nạn, ông lại càng thêm phần hiếu thuận với cha mẹ hơn
xưa. Thuấn quả thực là một người có phẩm hạnh siêu thường. Sự hiếu thuận
đã đưa tên tuổi của vang danh khắp thiên hạ. Sau này, ông được vua
Nghiêu gả con gái và nhường lại giang sơn cho cai quản.
Tại
sao cổ nhân lại đem câu chuyện hiếu thuận kỳ lạ, thậm chí có chỗ tưởng
như vô lý này xếp đầu 24 gương hiếu thảo? Phải chăng người xưa muốn căn
dặn điều này? Trong
một đời người, không ai có quyền lựa chọn cha mẹ hay con cái của mình.
Chúng ta chỉ có thể lựa chọn nghề nghiệp, nơi ở và cách sống. Nếu đã
không thể lựa chọn vì sao không thể thay đổi thái độ để cải biến hoàn
cảnh? Người mẹ kế độc ác nhưng thái độ ứng xử lấy thiện đãi người của
vua Thuấn đã cải biến hoàn cảnh hoàn toàn, lại giúp ông được đề cao, lưu
danh vào sử sách như một tấm lòng chí hiếu.
Văn
hoá truyền thống Á Đông coi hiếu đức như điểm khởi đầu của sự tu dưỡng
bản thân. Chỉ khi biết yêu thương cha mẹ mình, người ta mới có được đức
nhân từ, bao dung độ lượng. Từ
góc độ chiết tự, chữ 孝 (Hiếu) được ghép bởi hai phần, trên là chữ “Lão”
dưới là chữ “Tử”, nghĩa là người già bên trên, người trẻ ở dưới, ý nói
hậu bối cần phải tôn trọng các bậc trưởng bối nhiều tuổi hơn mình.
Bồi
dưỡng một trái tim lương thiện, mở rộng tình cảm cá nhân thành lòng
thương người, bắt đầu từ việc thiện đãi người thân bên cạnh, thiện đãi
hết thảy mọi người xung quanh, lấy đây làm chuẩn tắc đối nhân xử thế.
Chỉ khi nuôi dưỡng được thiện tâm tròn đầy, người ta mới có thể tận
hưởng một cuộc sống hạnh phúc hơn, ý nghĩa hơn. Khi luôn bảo trì một
trái tim từ bi, yêu thương (gần nhất là với cha mẹ) người ta mới có thể
dung nạp được hết thảy sự đời, mỉm cười trước những khó nạn tưởng chừng
cao như núi. Do đó cũng có thể nói, hiếu thuận chính là cái gốc của hạnh
phúc vậy!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét