Tỳ-kheo Thích Nhật Từ Soạn dịch
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
1. Nguyện Hương
2. Đảnh Lễ Tam Bảo
3. Tán Hương
4. Phát Nguyện Trì Kinh
5. Tán Dương Giáo Pháp
PHẦN CHÁNH KINH
6. Kinh Phổ Môn
PHẦN SÁM NGUYỆN VÀ HỒI HƯỚNG
7. Kinh Tinh Hoa Trí Tuệ
8. Niệm Bồ-tát
9. Mười Hai Lời Nguyện
10a. Năm Điều Quán Tưởng
10b. Quán Chiếu Thực Tại
11a. Sám Quy Nguyện
11b. Sám Cầu An
11c. Hồi Hướng Công Đức
12. Phục Nguyện
13. Đảnh Lễ Ba Ngôi Báu
THAY LỜI TỰA
I. VÀI NÉT VỀ BẢN DỊCH
Tên
gọi thông thường của bài kinh này là Phẩm Phổ Môn, kinh Phổ Môn hay
kinh Quán Thế Âm và gọi đủ là Quan Thế Âm Bồ-tát Phổ Môn Phẩm. Đây là
bài kinh nói về hạnh nguyện độ sanh của Bồ-tát Quan Thế Âm, và thông qua
đó, giới thiệu cách “quán chiếu” cuộc đời để đạt được giác ngộ và giải
thoát như phương pháp tu tập phổ biến và có hiệu quả trong cõi Ta-bà.
Nguyên
tác của bản kinh được viết bằng tiếng Sanskrit. Có ba bản dịch chữ Hán:
1) Bản của ngài Trúc Pháp Hộ dịch mang tựa đề “Quan Thế Âm Bồ-tát” là
phẩm thứ 23 trong Chánh Pháp Hoa Kinh, 2) Bản của ngài Cưu-ma-la-thập
dịch mang tựa đề “Quan Thế Âm Bồ-tát Phổ Môn Phẩm”, là phẩm thứ 25 trong
kinh Hoa Sen Chánh Pháp (Diệu Pháp Liên Hoa Kinh), và 3) Bản của hai
ngài Xà-na-quật-đa và Đạt-ma-cấp-đa dịch mang cùng tựa đề với bản
Cưu-ma-la-thập, là phẩm thứ 24 trong Thiêm Phẩm Pháp Hoa Kinh. Trong ba
bản Hán dịch, chỉ có bản thứ ba có đủ hai phần trường hàng (văn xuôi) và
kệ trùng tụng (thi hoá phần văn xuôi). Kể từ khi bản dịch thứ ba ra
đời, các ấn bản mới của ngài Cưu-ma-la-thập có bổ túc phần thi kệ của
bản dịch thứ ba, như nội dung mà chúng ta sử dụng hiện nay. Trong bản
dịch tiếng Việt, chúng tôi sử dụng bản chữ Hán của ngài Cưu-ma-la-thập
và giữ nguyên phần trùng tụng. Là vì, có những điều được trình bày trong
phần trùng tụng không có trong phần trường hàng và ngược lại.
II. CẤU TRÚC VÀ ỨNG DỤNG
Cũng
như cách bố cục truyền thống, khoá lễ này gồm ba phần. Phần thứ nhất là
nghi thức dẫn nhập, bao gồm 5 tiết mục như nguyện hương, đảnh lễ ba
ngôi báu, tán hương, phát nguyện trì kinh và tán dương giáo pháp. Phần
thứ hai là phần chánh kinh, giới thiệu về hạnh nguyện độ sanh của Bồ-tát
Quan Thế Âm. Phần thứ ba là phần sám nguyện và hồi hướng, bắt đầu bằng
bài kinh ngắn, tóm thâu tinh túy của kinh Đại Bát-nhã của Phật giáo Đại
thừa: Bát-nhã Tâm Kinh. Mặc dù chỉ có 260 chữ, nhưng bài kinh này tập
trung các pháp tu căn bản của Phật giáo đại thừa, giúp hành giả diệt trừ
tất cả các khổ đau trong cuộc đời bằng phương pháp quán chiếu năm yếu
tố hình thành nên con người là không có một thực thể hay ngã thể. Từ đó,
với trí tuệ duyên khởi, hành giả thấu suốt mọi sự vật hiện tượng theo
một cách thức tương tự. Kế đến là mười hai lời nguyện của Bồ-tát Quan
Thế Âm, giúp cho người thọ trì hiểu rõ hơn về bản nguyện cứu thế độ sanh
của vị Bồ-tát nổi tiếng về từ bi này. Các mục còn lại trong phần này là
niệm Phật, đọc sám nguyện, hồi hướng công đức, phục nguyện và nương tựa
ba ngôi báu.
Về phương diện ứng dụng, kinh Phổ Môn chủ yếu được
tụng vào các dịp cầu an bệnh nhân, cầu tai qua nạn khỏi, cầu gia đạo
bình an, cầu quốc thới dân an, cầu mưa hòa gió thuận, hay tụng vào những
dịp khánh hỷ, lễ an vị Phật, lễ khai trương, lễ khởi công, lễ khánh
thành, lễ tân gia, lễ sinh nhật, lễ đáo tuế, lễ cầu thọ, lễ chúc thọ
v.v...
III. NỘI DUNG VÀ TRIẾT LÝ
Nội dung chính của Kinh
bao gồm ba phần: a) thần lực trì danh Quan Âm, b) cứu thế độ sanh qua 33
ứng thân, c) phương pháp ngũ âm và ngũ quán.
Trước nhất, thần
lực độ sanh nhiệm mầu của Bồ-tát Quan Thế Âm được giới thiệu theo mô-típ
tương giao nhân quả giữa chúng sanh và Bồ-tát, trong một giao thoa “hữu
cầu tất ứng.” Đức Quan Thế Âm sở dĩ được tôn xưng với danh hiệu này là
vì ngài là vị Bồ-tát luôn luôn ban bố niềm vui không sợ sệt (vô úy thí)
cho tất cả chúng sanh đang chịu nhiều đau khổ trong đời, từ thiên tai,
hoả hoạn, lũ lụt, cho đến nạn vua quan và giặc cướp, và thậm chí ngài
còn là điểm tựa tinh thần cho quá trình chuyển hoá các tâm lý âm tính
của con người thành các chất liệu đạo đức và tuệ giác, giúp cho người
phàm phu trở thành thánh nhân.
Cũng cần lưu ý rằng bài kinh này
mang ý nghĩa ẩn dụ rất cao, theo phong cách biểu đạt của các kinh điển
Đại thừa. Do đó, người đọc kinh không nên chấp chữ quên ý. Đừng đơn
thuần nghĩ rằng công thức “cầu gì được nấy” trong Kinh mang “nghĩa đen”
chỉ cho tha lực của Bồ-tát như một vị thần linh ban phước cứu nguy, mà
thật chất còn hàm chứa các biểu tượng triết lý ứng xử và tu tập rất độc
đáo. Nói cách khác, yếu tố “Tha lực” của Bồ-tát Quan Thế Âm cũng như
thái độ cầu nguyện van xin của người tín ngưỡng không phải là mục tiêu
chính yếu của Kinh. Phương pháp tu tập quán chiếu (Quán) cuộc đời (Thế)
mới chính là cốt lõi của Kinh. Nhờ quán chiếu cuộc đời theo phương thức
duyên khởi và vô ngã, hành giả tự độ thoát chính mình khỏi các đau khổ
đang hoành hành.
Ngoài ra, kinh này còn nói lên tình thương bao
la của một vị bồ-tát qua phương pháp độ sanh với 33 ứng thân khác nhau,
phù hợp với căn cơ và đối tượng của người tu tập. Hình ảnh 33 ứng thân
gợi cho chúng ta tinh thần nhập thế đa dạng của vị Bồ-tát vì sự nghiệp
duy nhất là đem lại an lạc và hạnh phúc cho chúng sanh. Triết lý ứng
thân này còn cho thấy muốn độ sanh có hiệu quả, người hành đạo phải hiểu
rõ tâm lý và hành vi của đối tượng. Hiểu biết căn tánh của chúng sanh
là cách tốt nhất để thể hiện tính khế lý và khế cơ trong độ sanh của một
vị bồ-tát nhập thế để cứu độ đời.
Cần nhấn mạnh rằng triết lý độ
sanh trong kinh này mang tính ẩn dụ cao. Ở đây không có một vị bồ-tát
Quán Thế Âm thật để cứu độ chúng ta theo phương thức cầu gì được nấy.
Bởi vì điều này trái với nguyên lý nhân quả và nghiệp báo mà đức Phật đã
giảng dạy. Sự cứu độ của kinh này là “pháp tu” Quán Thế Âm. Kinh giới
thiệu đến năm loại âm thanh hiện hữu trong cuộc đời, đó là, tiếng nhiệm
mầu (Diệu Âm), tiếng quán chiếu cuộc đời (Quán thế âm), tiếng thanh tịnh
(Phạm âm), tiếng sóng vỗ (Hải triều âm) và tiếng siêu việt thế gian
(Siêu việt thế gian âm).
Nếu tiếng nói của cuộc đời mang sắc thái
của khổ đau, than vãn, thù hận, đố kỵ, tranh chấp, xung đột và thị phi,
v.v... phản ánh các tầng số âm hưởng của tâm thấp kém thuộc về trần
thế, thì năm âm thanh mà ngài Quán Thế Âm sử dụng giới thiệu tầng số
sóng âm tâm linh cao cấp, chứa đựng chất liệu chuyển hoá tâm thức và
thăng hoa đời sống con người và xã hội.
Tiếng nói của tình thương
là tiếng nói mầu nhiệm (diệu âm), thiết lập tính nhân văn trong các
quan hệ con người. Quán chiếu âm thanh của cuộc đời (quan thế âm) để nắm
bắt và đáp ứng được nhu cầu của con người và cuộc sống, theo đó, con
người độ sanh sẽ dấn thân phục vụ nhân sinh đúng căn cơ và đối tượng.
Đời sống đạo đức của con người tuệ giác sẽ trở thành lời nói bênh vực
đời sống mô phạm và công chính. Nói cách khác, đời sống trong sạch sẽ
thành lời tôn vinh đạo đức (phạm âm). Sự nhập thế và dấn thân mang lại
hạnh phúc và an vui cho mọi người và cộng đồng chính là tiếng sóng vỗ
(hải triều âm), xoá tan cái không khí ù lì, thụ động và tiêu cực. Tiếng
nói của chân lý duyên sinh vô ngã là âm thanh làm khiếp sợ các học
thuyết nhất nguyên và thần luận của cuộc đời (thắng bỉ thế gian âm). Năm
loại âm thanh này chính là năm thái độ sống và ứng xử cần thiết cho thế
giới hôm nay và mai sau.
Đối lại năm âm thanh này là năm pháp
quán chiếu hay thiền định: quán chân thật (chân quán), quán thanh tịnh
(thanh tịnh quán), quán trí tuệ rộng lớn (quảng đại trí tuệ quán), quán
cứu khổ (bi quán) và quán ban tình thương (từ quán). Chính nhờ nương vào
năm pháp quán chiếu này, hành giả tự giải thoát chính mình ra khỏi mọi
khổ ách của cuộc đời.
Quán chân thật là quán bản chất của mọi sự
vật hiện tượng theo nguyên lý duyên khởi, tùy thuộc, vô ngã và vô
thường. Nhờ quán chiếu pháp này, hành giả thoát được các chấp mắc về ngã
và pháp. Quán thanh tịnh nhằm giúp hành giả có cái nhìn lạc quan và
tích cực về thế giới đau khổ này. Nói cách khác bản chất cuộc đời vốn
không có nhơ và sạch. Do chấp mắc, chúng ta cho là nhơ uế. Phương pháp
quán thanh tịnh nhằm giúp chúng ta xóa bỏ sự chấp mắc sai lạc trên. Quán
trí tuệ rộng lớn là pháp quán rất cần thiết với mọi người. Ngoại diên
của trí tuệ và vô bờ bến. Do đó, ảnh hưởng của trí tuệ đối với cuộc sống
của chúng ta cũng không có giới hạn. Nói cách khác, với hành trang của
trí tuệ, cuộc hành trình của chúng sanh trong cõi ta-bà sẽ là cuộc hành
trì đầy an lạc và hạnh phúc. Trí tuệ là đầu mối của sự giải thoát. Quán
cứu khổ (bi quán) và quán ban vui (từ quán) là hai pháp quán thể hiện
tình thương bao la, vô ngã và vị tha đối chúng sanh. Với pháp quán này,
hành giả đã từng bước trở thành một vị bồ-tát cứu độ cho chính mình và
cứu độ chúng sanh thoát khỏi đau khổ.
Nói rõ hơn, khi tu tập 5
pháp quán đó mỗi chúng ta là một bồ-tát Quán Thế Âm cứu chính chúng ta
và tha nhân ra khỏi nhà lửa của khổ đau và bất hạnh.
***
Do
đó, đọc tụng và thọ trì Kinh Phổ Môn không chỉ để được Bồ-tát Quan Thế
Âm gia hộ, mà quan trọng hơn, chúng ta nên để tâm đến phương pháp “quán
chiếu cuộc đời,” và phương thức “sống không sợ hãi” của vị Bồ-tát nổi
tiếng dung hoà và song hành giữa tình thương và trí tuệ, để an lạc và
thảnh thơi của mình và tha nhân được thiết lập bây giờ và tại đây, một
cách vững chải, lâu dài.
Xin hồi hướng công đức của bản dịch này
đến với tất cả chúng sanh trong ba cõi và sáu đường. Nguyện cầu mọi
người sống với cái nhìn quán chiếu tuệ giác, để an lành, hạnh phúc và
hoà bình có mặt khắp nơi trên hành tinh này.
Ngày vía Bồ-tát Quan Thế Âm 19-2-Giáp Thân (10-3-04)- Thích Nhật Từ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét