Ảnh do CSYT chụp tại Tu viện Thiện Hoa
Có
nhiều người cho rằng đạo Phật là đạo diệt dục, là
đạo lý dạy con người diệt trừ tất cả mọi ước mơ,
mọi mong muốn, mọi thương yêu, là giáo lý bi quan yếm thế…
Nói như vậy quả là một ngộ nhận rất lớn và chứng tỏ là họ chưa hiểu gì về đạo Phật. Trong khi đó giáo lý về tình thương là một đề tài rất lớn mà đức Phật luôn đề cập đến trong nhiều kinh, được xem là vấn đề cốt tuỷ trong đạo Phật.
Nói như vậy quả là một ngộ nhận rất lớn và chứng tỏ là họ chưa hiểu gì về đạo Phật. Trong khi đó giáo lý về tình thương là một đề tài rất lớn mà đức Phật luôn đề cập đến trong nhiều kinh, được xem là vấn đề cốt tuỷ trong đạo Phật.
Tình
thương
là một loại năng lượng có thể thực hiện được
nhiều phép lạ. Khi người ta thương, người ta có thể làm
được những việc mà người không thương không thể làm
được. Tuy nhiên có loại tình thương đem đến cho ta và người
niềm vui và hạnh phúc và có loại tình thương đem đến cho
ta và người sự bi lụy khổ đau. Loài người ngụp lặn trong
khổ đau vì trong đời sống hàng ngày tình thương của họ
còn mang nhiều tính chất của hệ lụy và vướng mắc. Vì
vậy muốn vượt thoát khổ đau, chúng ta cần có được tình
thương chân thật, một tình thương có khả năng đem lại
hạnh phúc, an vui cho người và mình.
Giáo
lý về tình thương được gọi là Tứ Phạm Trụ, Brahmavihara
(The Four Abodes of Brahma). Brahma có nghĩa là Phạm Thiên hay là
cao quý. Vihara là chổ ở, là cư xá, có khi được dịch là
tu viện. Ðó là nơi cư trú của Phật và Bồ Tát. Nếu ta
muốn hạnh phúc thì ta hãy xin vào cư trú ở đó để sống
chung với Phật và Bồ Tát. Tứ Phạm Trụ tức là Từ, Bi,
Hỷ và Xả mà chúng ta thường gọi là bốn tâm vô lượng.
Vô lượng tức là không thể đo được, và có thể phát huy
đến vô cùng. Bốn tâm không có biên giới là tâm Từ, tâm
Bi, tâm Hỷ và tâm Xả.
Trước
hết là tâm Từ. Chữ Phạn là Maitri, chữ Pàli là Metta. Maitri
có nghĩa là khả năng hiến tặng niềm vui, hiến tặng hạnh
phúc (The capacity to offer joy and happiness). Ðức Phật sắp ra
đời để nối tiếp sự nghiệp của Phật Thích Ca tên là
Maitreya, nghĩa là đức Phật của tình thương.
Thứ
hai là tâm Bi, Karuna, có nghĩa là khả năng làm vơi đi nỗi
khổ đang có mặt. Nó gồm ý chí muốn vơi đi nỗi khổ, muốn
chuyển hóa nỗi khổ của con người; Và gồm cả phương pháp
và khả năng chuyển hóa nỗi khổ.
Hỷ
tức là Mudita, là niềm vui. Tình thương đích thực, có Từ,
có Bi sẽ đem tới sự nhẹ nhõm và niềm vui tươi. Tình thương
mà chứa chất sầu đau thì không phải là tình thương trong
đạo Phật. Cho nên Mudita là một yếu tố của tình thương
đích thực. Tình thương có thể đem lại cho người thương
và người được thương hạnh phúc mới đúng là tình thương
chân thật. Còn thứ tình thương mỗi ngày gây đau khổ và
vướng mắc cho nhau, thì không phải là tình thương của đạo
Phật. Hỷ là yếu tố thứ ba của tình thương ấy.
Và
sau cùng, Xả (Upeksa) là sự nhẹ nhàng, thư thái, tự do và
không kỳ thị. Thương như thế nào mà ta còn
giữ được
tự do cho ta và cho người ta thương thì mới đích thực là
tình thương . Thương như thế nào mà hai người không dìu
nhau vào ngục tù. Tình cha con, tình thầy trò, tình anh em, tình
yêu nam nữ cũng vậy.
Tứ
vô lượng tâm là giáo lý dạy rất đầy đủ về tình thương.
Tình thương này có năng lực trị liệu. Từ, Bi, Hỷ, Xả
không phải là triết lý, là mục tiêu xa xôi mà là sự thực
tập. Từ không phải chỉ là ước muốn đem lại hạnh phúc
cho người. Chính sự thực tập Từ đem lại hạnh phúc cho
người. Có người càng thương thì càng làm cho người kia
khổ. Thương như vậy chưa phải là Từ, mới chỉ có ý chí
thương nhưng không có khả năng thương. Bi cũng vậy. Bi cũng
là ước muốn và có khả năng làm vơi đi nỗi khổ. Hỷ là
ước muốn và khả năng tạo hạnh phúc cho mình và người.
Và Xả tức là ước muốn và khả năng hiến tặng sự tự
do và sự không kỳ thị cho mình và cho người.
Nếu
không thực tập được chánh niệm thì ta không thể thực
tập được tình thương. Chánh niệm cho chúng ta thấy được
nhu yếu chuyển hóa khổ đau và nhu yếu hiến tặng niềm vui.
Khi một người làm cho ta khổ thì chính người đó cũng đang
bất an; Phản ứng của ta chỉ làm cho người đó thêm khổ,
vì thế lại làm khổ chính ta hơn. Cái khả năng giúp ta nhận
chân ra sự thật đó là chánh niệm. Từ, Bi, Hỷ, Xả phải
thực hiện cho chính mình trước. Nếu ta không có bốn tâm
đó trong ta thì ta không thể hiến tặng nó cho người khác.
Phải đầu tư, phải gây vốn cho bốn vô lượng tâm. Vốn
liếng của ta là công phu thực tập Tứ Diệu Ðế. Ði thiền
hành cho đúng phép, có an lạc trong từng bước chân, nuôi
dưỡng từng tế bào của cơ thể bằng hơi thở chánh niệm,
đó là ta đang tự thương mình. Thương mình đích thực, ta
làm cho rã bớt những nỗi sầu khổ, tưới vào bản thân
những niềm vui.
Nuôi
dưỡng mình và nuôi dưỡng những người xung quanh bằng tình
thương, đó là sự thực tập của chúng ta. Và tình thương
ở đây xuất phát từ Tuệ. Nếu không hiểu biết thì không
thể thương yêu. Bản chất của Từ Bi là Trí Tuệ. Thương
mà không hiểu thì làm khổ người mình thương. Muốn hiến
tặng niềm vui cho người, ta phải hiểu người. Con mắt chánh
niệm phải quan sát. Cư xử với con cái cũng vậy, với cha
mẹ cũng vậy. Chúng ta có thể nói rằng trong đạo Phật thương
yêu được làm bằng một chất liệu gọi là hiểu biết.
Mà hiểu biết là hoa trái của chánh niệm.
Nguyên
tắc thực tập Tứ Diệu Ðế phải được thực tập ở đây.
Trước
hết ta nhìn vào để thấy được những nỗi khổ. Sau khi
nhận diện được sự thật thứ nhất về Khổ, ta mới tìm
ra được những nguyên nhân gần xa của Khổ, tức là ta quán
chiếu Tập. Và sự thực khi nào nắm được hai sự thật
đầu ta mới biết con đường nào giúp người vượt qua những
khổ đau, biết được Diệt và Ðạo. Thực tập Tứ Diệu
Ðế là thực tập tình thương. Phật là một bậc Trí và
Bi viên mãn. Thật ra, nếu Bi mà viên mãn thì Trí cũng viên
mãn, và nếu Trí mà viên mãn thì Bi cũng viên mãn.Hai là một,
một là hai. Trong Kinh Bát Ðại Nhân Giác nói rằng một vị
Bồ Tát không đem tâm ghét những người đã làm điều ác.
Những điều kiện xã hội, kinh tế, chính trị, những vô
minh căm thù đã được chất chứa từ lâu đã đưa tới những
hành vi ác độc. “Bất tắng ác nhân” là bốn chữ trong
Kinh Bát Ðại Nhân giác. Làm sao ta hiểu được bốn chữ “không
ghét người ác” nếu ta quên tình thương, nếu ta chỉ dùng
trí năng khô khan để hiểu? Trí năng khô khan gọi là càn
tuệ, dired knowledge. Tình thương chỉ có làm bằng chất liệu
hiểu biết, bằng tuệ giác chân thật, chữ Phạn là Prajna,
phiên âm là Bát Nhã. Bát Nhã là hoa trái của sự quán chiếu.
Không giận mình, không ghét người. Vì thấy những nguyên
do sâu xa của mọi hành động nên ta thấy thương mình và
thương người. Chất liệu của Từ phát xuất từ trái tim,
và tưới trở lại cho trái tim. Thực tập Từ và Bi trên căn
bản hiểu biết thì không bao giờ vướng mắc vào tình thương
chiếm hữu. Thương mà không hiểu chỉ giam nhau vào ngục tù,
tự giam mình vào ngục tù và làm khổ lẫn nhau. Người này
lập ra nhà tù nhốt người kia vào cũng chỉ vì có thiện
chí. Chồng với vợ, cha mẹ với con cái, bạn bè với nhau,
khi thương nhau chúng ta vẫn thường giam nhau vào ngục tù,
chỉ vì ta không biết được nhu yếu sâu xa đích thực của
chính bản thân ta và của những người mà ta thương.
Tình
thương chân thật được làm bằng sự hiểu biết. Tình thương
chân thật phải đến niềm vui vô cầu, không vị lợi. Tu
không phải là từ bỏ niềm vui. Niềm vui của người tu không
phải chỉ phát sanh khi thấy người khác thành đạt và hạnh
phúc, mà cả khi thấy mình nhẹ nhàng, thảnh thơi và có hạnh
phúc. Khi tôi bước những bước thiền hành thảnh thơi, tôi
tiếp xúc với nắng, tôi tiếp xúc với tiếng chim, tôi được
nuôi dưỡng, tôi thư thái, đó là niềm vui, chữ Phạn là
Mudita. Tu tập đúng pháp là nuôi dưỡng thân tâm bằng niềm
vui và sự nhẹ nhàng. Làm như vậy là ta đang thực tập thương
yêu, đang nuôi dưỡng tình yêu chân thật cho mình và những
người xung quanh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét